Phạm
Văn Đồng, thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) tức Bắc Việt Nam (BVN),
ký công hàm ngày 14-9-1958, thừa nhận
tuyên bố về lãnh hải ngày 4-9-1958 của Trung Cộng, tức thừa nhận Hoàng
Sa và Trường Sa là của Trung Cộng. Lúc
đó, trên Biển Đông, Trung Cộng chưa manh động vì Hải quân Hoa Kỳ còn hiện diện.
TRUNG
CỘNG CHỌN THỜI ĐIỂM
Tình
hình bắt đầu thay đổi năm 1972. Khi qua
thăm Trung Cộng vào tháng 2-1972, tổng thống Hoa Kỳ là Richard Nixon cho các
nhà lãnh đạo Trung Cộng biết Hoa Kỳ sẽ đơn phương rút quân ra khỏi Việt Nam Cộng
Hòa (VNCH) hay Nam Việt Nam (NVN).
Có
tài liệu cho rằng trong cuộc thương lượng giữa hai bên, Hoa Kỳ “ra điều kiện nếu Trung Quốc để cho Mỹ ném
bom B 52 ra miền Bắc thì Mỹ sẽ nhường hòn đảo Hoàng Sa cho Trung Quốc.” Sau
đó, “ngày 4-4-1972, khi quân đội miền Bắc
đang tấn công dữ đội vào Quảng Trị, người Mỹ cần một áp lực từ phía Bắc Kinh với
Hà Nội, Kissinger đã phái Winston Lord tới New York gặp Hoàng Hoa, đại sứ Trung
Quốc tại Liên Hiệp Quốc, để trao đổi một “bức điện miệng” nhắn Trung Quốc: “Hải quân Mỹ sẽ được lệnh ở lại tại khoảng
cách 12 dặm kể từ quần đảo Hoàng Sa.” (Huy Đức, Bên thắng cuộc, tập I: Giải phóng, Saigon-Boston-Los Angeles-New
York: Osin Book, 2012, tr. 107 và tr. 109.
Huy Đức dựa vào tài liệu của Henry Kissinger.)