Gần
đây, nhân chuyện phim The Vietnam War ra mắt, có nhiều người bàn luận sôi sổi. Có người còn đặt câu hỏi ai đã vi phạm hiệp định
Genève để đưa đến chiến tranh?
Hiệp
định Genève ngày 20-7-1954 chia hai
Việt Nam ở vĩ tuyến 17. Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa (VNDCCH) ở phía bắc, thường được gọi là Bắc Việt Nam (BVN). Quốc Gia Việt Nam (QGVN), đổi thành Việt Nam
Cộng Hòa (VNCH) ngày 26-10-1955, ở phía nam, thường được gọi là Nam Việt Nam
(NVN).
1.- HIỆP ĐỊNH GENÈVE
KHÔNG ĐỀ CẬP
CHUYỆN THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC
Danh
xưng chính thức đầy đủ của hiệp định Genève
về Việt Nam là Hiệp định đình chỉ chiến sự
ở Việt Nam, được viết bằng hai thứ tiếng Pháp và Việt, có giá trị như
nhau. Ngoài Pháp và VNDCCH tức Việt
Minh, các nước khác cùng ký vào hiệp định Genève
còn có Anh, Liên Xô, Trung Cộng, Lào, Cambodia. Hai chính phủ QGVN và Hoa Kỳ KHÔNG KÝ VÀO BẢN HIỆP ĐỊNH NẦY.
Hiệp định đình
chỉ chiến sự ở Việt Nam gồm có 6 chương, 47 điều, chỉ là một hiệp định có
tính cách thuần tuý quân sự, hai bên ngưng chiến đấu, rút quân về vị trí chỉ định
trong hiệp định, thời biểu rút quân ... Hiệp
định không đưa ra một giải pháp chính trị nào cho tương lai Việt Nam, nghĩa là
hoàn toàn không đề cập đến chuyện tổng tuyển cử thống nhứt đất nước.
Gần
một năm sau, thủ tướng QGVN Ngô Đình Diệm tuyên bố trên đài phát thanh Sài Gòn
ngày 6-7-1955 rằng chính phủ QGVN không ký các văn kiện Genève nên không bị
ràng buộc phải thi hành hiệp định nầy.
Chính phủ QGVN không phản đối nguyên tắc tổng tuyển cử, nhưng không có bằng
chứng cho thấy VNDCCH đặt quyền lợi quốc gia lên trên quyền lợi Quốc tế Cộng sản.
(John S. Bowman, The Vietnam War, Day by
Day, New York: The Maillard Press, 1989, tr. 17.)
Ngày
19-7-1955, thủ tướng VNDCCH là Phạm Văn Đồng gởi thư cho thủ tướng Ngô Đình Diệm
yêu cầu mở hội nghị hiệp thương bắt đầu từ ngày 20-7-1955, như đã quy định
trong hiệp định Genève ngày
20-7-1954, để bàn về việc tổng tuyển cử nhằm thống nhứt đất nước. Ngày 10-8-1955, thủ tướng Ngô Đình Diệm bác bỏ
đề nghị của Phạm Văn Đồng, và xác nhận lại chủ trương của chính phủ QGVN đã được
đưa ra ngày 6-7-1955. Quốc Gia Việt Nam
được đổi thành Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) ngày 26-10-1955.
Tuy
chính phủ VNCH nhiều lần từ chối, thủ tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng vẫn nhắc lại đề
nghị nầy hằng năm vào các ngày 11-5-1956, 18-7-1957, và 7-3-1958, nhằm chứng tỏ
VNDCCH quan tâm đến chuyện thống nhứt đất nước, và tuyên truyền với các nước
trên thế giới. Lần cuối, tổng thống VNCH
Ngô Đình Diệm, bác bỏ đề nghị của Phạm Văn Đồng vào ngày 26-4-1958.
Hiệp
định Genève hoàn toàn không đề cập đến
chuyện tổng tuyển cử thống nhất đất nước, nên luận điệu của VNDCCH cho rằng
VNCH không hiệp thương để tổng tuyển cử, vi phạm hiệp định Genève, là LUẬN ĐIỆU VU CÁO TRẮNG TRỢN. Luận điệu vu cáo nầy được cộng sản lập đi lập
lại nhiều lần, cho đến ngày nay trong nước vẫn còn tồn tại luận điệu vu cáo nầy.
2.- VIỆC TỔNG TUYỂN CỬ ĐƯỢC ĐỀ CẬP
TRONG BẢN TUYÊN BỐ KHÔNG CHỮ KÝ
Sau
khi Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt
Nam cùng các hiệp định đình chỉ chiến sự ở Lào và Cambodia được ký kết, các
phái đoàn tham dự hội nghị Genève họp tiếp vào ngày 21-7-1954, nhằm bàn thảo bản
"Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở
Đông Dương".
Bản
tuyên bố gồm 13 điều; quan trọng nhứt là điều 7, ghi rằng: "Hội
nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị thực
hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ,
sẽ phải làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng những sự tự do căn bản, bảo đảm bởi
những tổ chức dân chủ thành lập sau tổng tuyển cử tự do và bỏ phiếu kín. Để cho việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức
cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ ý nguyện, cuộc Tổng tuyển cử
sẽ tổ chức vào tháng 7-1956 dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc tế gồm đại biểu
những nước có chân trong Ban Giám sát và Kiểm soát Quốc tế đã nói trong Hiệp định
đình chỉ chiến sự. Kể từ ngày 20-7-1955
những nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để
thương lượng về vấn đề đó." (Thế Nguyên, Diễm Châu, Đoàn Tường, Đông Dương 1945-1973, Sài Gòn: Trình
Bày, 1973, tr. 53. Bản Pháp văn:
google.com.fr., chữ khóa: Déclaration finale de la Conférence de Genève en
1954.)
Chủ
tịch phiên họp là Anthony Eden (ngoại trưởng Anh) hỏi từng phái đoàn, thì bảy
phái đoàn là Anh, Pháp, Liên Xô, Trung Cộng, VNDCCH, Lào và Cambodia trả lời miệng
rằng "đồng ý". Tất cả đều trả lời miệng, không phái đoàn nào ký tên
vào bản tuyên bố, nghĩa là BẢN TUYÊN BỐ KHÔNG CÓ CHỮ KÝ.
Đây
chỉ là lời tuyên bố (déclaration) của những phái đoàn, có tính cách dự kiến
tương lai Việt Nam. Một văn kiện quốc tế
không có chữ ký, thì không thể là một hiệp ước, vì không ai ký tên cam kết để
thi hành những điều đã cùng nhau thỏa ước (nên mới gọi là hiệp ước). Bản tuyên
bố không chữ ký chỉ có tính cách gợi ý, hướng dẫn mà thôi. Hơn nữa, những hiệp định với đầy đủ chữ ký mà
còn bị CSVN vi phạm trắng trợn, huống gì là một bản tuyên bố không chữ ký? (Ở đây xin đưa ra một ví dụ đơn giản: hai người
nam nữ tuyên bố kết hôn mà không ký kết hôn ước thì có hợp pháp hay không?)
Phái
đoàn QGVN và phái đoàn Hoa Kỳ không ký vào Hiệp
định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam ngày 20-7-1954 và cũng không đồng ý bản
"Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở
Đông Dương" ngày 21-7-1954. Hai
phái đoàn QGVN và Hoa Kỳ đã đưa ra tuyên bố riêng của mỗi phái đoàn để minh định
lập trường của mình.
Chính
phủ QGVN dưới quyền quốc trưởng Bảo Đại và thủ tướng Ngô Đình Diệm thi hành
đúng đắn hiệp định Genève ngày
20-7-1954, tập trung và rút toàn bộ lực lượng QGVN về miền Nam vĩ tuyền 17 đúng
thời hạn và đúng theo quy định của hiệp định Genève. Điều nầy chẳng những
báo chí lúc bấy giờ đã trình bày, mà cho đến nay, không có tài liệu nào cho thấy
là chính phủ QGVN đã vi phạm hiệp định Genève.
Riêng
bản” Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève …” ngày 21-7-1954 không có chữ ký,
không ai ký tên cam kết sẽ thi hành, chỉ có tính cách khuyến cáo mà thôi, nên
không bắt buộc VNCH phải thi hành. Vì vậy,
cũng KHÔNG THỂ VU CÁO VIỆT NAM CỘNG HÒA VÀ TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM không thi
hành hiệp định Genève, rồi động binh
gây chiến.
3.- AI VI PHẠM HIỆP ĐỊNH GENÈVE?
Muốn
biết ai vi phạm hiệp định Genève, xin
trở lại thời gian hội nghị Genève. Hội
nghị khai mạc ngày 8-5-1954, kéo dài cho đến ngày 21-7-1954, có thể chia thành
hai giai đoạn: giai đoạn thứ nhứt từ
ngày 8-5 đến ngày 20-6-1954; giai đoạn thứ hai từ ngày 10-7-1954 đến ngày
21-7-1954.
Giữa
hai giai đoạn là thời gian 20 ngày tạm nghỉ để các phái đoàn về nước tham khảo
và nghỉ ngơi. Trong thời gian nầy, xảy
ra ba sự kiện quan trọng: 1) Tại Pháp, Mendès France được cử làm thủ tướng ngày
17-6-1954. Ông hứa hẹn với dân chúng
Pháp sẽ giải quyết vấn đề Đông Dương trong vòng bốn tuần lễ, và sẽ ký kết hiệp
ước đình chiến chậm nhứt là ngày 20-7-1954, nghĩa là Pháp dứt khoát rời bỏ Việt
Nam. 2) Tại Việt Nam, Ngô Đình Diệm được
quốc trưởng Bảo Đại đề cử giữ chức thủ tướng QGVN. Ông Diệm nhận chức ngày 7-7-1954, thường được
gọi là ngày “Song thất”. 3) Thủ tướng và
là trưởng phái đoàn Trung Cộng tại hội nghị Genève, Châu Ân Lai về nước trong
thời gian nghỉ họp, mời Hồ Chí Minh (HCM), chủ tịch VNDCCH, bí mật gặp nhau tại
Liễu Châu thuộc tỉnh Quảng Tây (Trung Hoa), từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954. Lúc đó, dư luận thế giới hoàn toàn không hay biết
đến hội nghị quan trọng nầy.
Hội
nghi Liễu Châu giữa Châu Ân Lai và HCM diễn ra từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954, tức
trước khi hiệp định Genève được ký kết.
Tháp tùng theo HCM có Võ Nguyên Giáp và Hoàng Văn Hoan. Vào họp, Châu Ân Lai báo cho phái đoàn Việt
Minh biết có ba cách để đối phó với tình hình mới: 1) Thượng sách là hòa. 2)
Trung sách là đánh rồi hòa. 3) Hạ sách là đánh tiếp.
Châu
Ân Lai khuyên HCM và Việt Minh chấp nhận thượng sách là hòa để tránh mở rộng
chiến tranh, vì nếu mở rộng chiến tranh, Hoa Kỳ có thể can thiệp. Theo Châu Ân Lai, Việt Minh nên giải quyết
riêng chuyện Việt, Miên, Lào, đồng thời chia hai Việt Nam ở khoảng vĩ tuyến
16. Với kinh nghiệm Trung Cộng qua chiến
tranh Triều Tiên, Châu Ân Lai khuyên HCM không nên đòi hỏi thái quá, khiến Pháp
sẽ ở vào thế phải nhờ Hoa Kỳ can thiệp. Cũng theo Châu Ân Lai, trong trường hợp
Hoa Kỳ can thiệp vào chiến tranh Việt Nam, với binh lực hùng hậu, Hoa Kỳ có thể
lật ngược tình thế như trong chiến tranh Triều Tiên trước đây. Như vậy, theo Châu Ân Lai, Việt Minh sẽ đuổi
được kẻ địch yếu (Pháp), nhưng lại rước kẻ địch mạnh (Hoa Kỳ). Hơn nữa, cũng theo Châu Ân Lai, Việt Minh nên
giúp thủ tưóng Mendès-France để ông ta không bị quốc hội Pháp lật đổ. Nếu Mendès France không thành công, chính phủ
Mendès France sẽ bị lật đổ, thì có thể bất lợi cho phía cộng sản. (Tiền Giang, Châu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Châu Ân Lai và hội nghị Genève] Bắc
Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, bản dịch của Dương Danh Dy, tựa đề
là Vai trò của Châu Ân Lai tại Genève năm
1954, chương 27 "Hội nghị Liễu Châu then chốt". Nguồn: Internet).
Châu
Ân Lai còn bàn thêm rằng sau khi chia hai Việt Nam, Việt Minh rút quân về phía
Bắc Việt Nam (BVN), nhưng không có nghĩa là Việt Minh rút hết võ khí, mà võ khí
nào cất giấu được, thì phân tán mà cất giấu để tránh bị phát hiện. Hồ Chí Minh và phái đoàn Việt Minh chấp nhận thi
hành kế hoạch của Châu Ân Lai.
Tại
hội nghị nầy, Võ Nguyên Giáp đưa ra kế hoạch là sẽ chỉ rút những người làm công
tác chính trị bị lộ diện; phần còn lại thì ở lại để chờ đợi thời cơ nổi dậy. Số ở lại có thể đến 10,000 người. Việt Minh cộng sản chẳng những chôn giấu võ
khí, lưu 10,000 cán bộ, đảng viên ở lại Nam Việt Nam (NVN), mà còn gài những
cán bộ lãnh đạo cao cấp ở lại NVN như Lê Duẩn, Võ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ, Cao
Đăng Chiếm... (Huy Đức, Bên thắng cuộc,
tập I: Giải phóng, New York: Osinbook, 2012, tt. 271-273).
Sau
hội nghị Liễu Châu, trong báo cáo của HCM tại hội nghị Ban chấp hành Trung ương
đảng Lao Động ngày 15-7-1954, HCM chỉ nhắc sơ là có gặp và trao đổi với thủ tướng
Châu Ân Lai. Việt Minh không công khai
loan báo kế hoạch của Châu Ân Lai cũng như kế hoạch mai phục cán bộ ở lại miền
Nam của Võ Nguyên Giáp để chờ đợi thời cơ nổi dậy. Lý do đơn giản là nếu công khai, thì sẽ bị lộ
ra âm mưu vi phạm hiệp định Genève. Về sau, khi ấn hành lại bản báo cáo nầy trong
Hồ Chí Minh toàn tập tập 7, Nxb Chính
Trị Quốc Gia, thì ban biên tập chỉ chú thích sơ lược cuộc gặp gỡ ở cuối trang
315.
Về
phía Châu Ân Lai, sau khi hội nghị Genève kết thúc ngày 21-7-1954, thì Trung Cộng
mới đăng lên Nhân Dân Nhật Báo ở Bắc
Kinh ngày 8-8-1954 bản “Tuyên bố về cuộc hội đàm Trung-Việt của chính phủ Trung
Quốc”, được dịch nguyên văn như sau:
“Thủ tướng nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa
Châu Ân Lai và chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Hồ Chí Minh đã cử hành hội
đàm tại biên giới Trung-Việt từ ngày 3 đến ngày 5 tháng 7 năm 1954. Thủ tướng Châu Ân Lai và chủ tịch Hồ Chí Minh
đã trao đổi ý kiến đầy đủ về vấn đề khôi phục hòa bình tại Đông Dương và các vấn
đề có liên quan khác. Tham gia hội nghị
còn có: Hoàng Văn Hoan, đại sứ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tại Trung Quốc và
Kiều Quán Hoa, cố vấn đoàn đại biểu nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa tại hội
nghị Genève.” (Tiền Giang, sđd., bản
dịch đã dẫn, chương: "Hội
nghị Liễu Châu then chốt”. Nguồn:
Internet) Bản tuyên bố nầy cũng chỉ xác nhận có cuộc hội
họp giữa Châu Ân Lai và HCM mà không đề cập đến nội dung chi tiết, như việc chôn
giấu võ khí, hay cài cán bộ ở lại NVN.
KẾT
LUẬN
Như
thế, rõ ràng trong khi chính phủ QGVN rồi VNCH tôn trọng hiệp định Genève, thi hành nghiêm túc tất cả những
quy định trong hiệp định Genève, thì nhà
nước VNDCCH đã có kế hoạch vi phạm hiệp định, ngay từ trước khi hiệp định được
ký kết và cả sau khi hiệp định được ký kết.
Đặc biệt VNDCCH vi phạm hiệp định có “biên nhận” do Trung Cộng cung cấp.
Năm
1973, chuyện vi phạm hiêp định Paris
lại tái diễn. Do đó, chẳng những “đừng tin những gì cộng sản nói” (lời tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu), mà còn đừng tin những gì cộng sản viết, và cũng đừng
tin những gì cộng sản cam kết, dù cam kết trên giấy tờ như hiệp định Genève.
TRẦN
GIA PHỤNG
(Toronto,
17-10-2017)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét