VIỆT
MINH CƯỚP CHÍNH QUYỀN Ở HÀ NỘI
Nhật
hoàng tuyên bố đầu hàng ngày 14-8-1945.
Trong lúc tình hình Hà Nội và Bắc Bộ xáo trộn, chính phủ Trần Trọng Kim
cử bộ trưởng Hoàng Xuân Hãn ra Bắc, thay mặt chính phủ giải quyết tại chỗ những
vấn đề khẩn cấp. Sau khi gặp các yếu
nhân Hà Nội, Hoàng Xuân Hãn gởi điện về Huế, đề nghị lập một cơ cấu chính trị mới
gọi là Uỷ ban Giám đốc Chính trị miền Bắc (Comité directeur de la politique du
Nord).
<!--m-->
Ngày
16-8-1945, chính phủ Trần Trọng Kim đề cử thành phần Ủy ban nầy như sau: Nguyễn Xuân Chữ (chủ tịch) và bốn uỷ viên là
Phan Kế Toại, Trần Văn Lai, Đặng Thai Mai, Nguyễn Tường Long. Tuy nhiên, ngoài bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ, bốn
uỷ viên kia đều vắng mặt. (Nguyễn Xuân
Chữ, Hồi ký, Houston: Nxb. Văn Hóa,
1996, tr. 280.)
Lý
do là vì VM đã tung cán bộ đe dọa từng người.
Phan Kế Toại không xuất hiện (có thể đã theo VM, con là Phan Kế Bảo, một
cán bộ VM), Trần Văn Lai bận việc ở tòa đô trưởng, Đặng Thai Mai hoàn toàn
không ra mặt, Nguyễn Tường Long bị bệnh chưa làm việc được.
Ngày
17-8-1945, Tổng Hội Công Chức do chính quyền Trần Trọng Kim thành lập, tổ chức
cuộc mít-tinh tại Nhà hát lớn, Hà Nội, nhằm ủng hộ chính phủ Trần Trọng
Kim. Trong khi các diễn giả của Tổng Hội
Công Chức đang nói chuyện ở Nhà hát lớn, thì một người nào đó (chắc chắn là cán
bộ VM) ở trên lầu Nhà hát lớn quăng xuống một lá cờ đỏ sao vàng của VM. Thế là cán bộ VM chụp lấy thời cơ, biến cuộc
mít-tinh của Tổng Hội Công Chức thành cuộc biểu tình tuần hành, quay qua ủng hộ
mặt trận VM. (Theo lời kể của một số người ngày nay lớn tuổi, đã từng tham dự
cuộc mít-tinh ngày 17-8-1945 tại Hà Nội.)
Ngày
19-8-1945, VM tiếp tục tổ chức biểu tình, chiếm Bắc bộ phủ (phủ toàn quyền Pháp
cũ), cướp chính quyền Hà Nội. Việt Minh
làm chủ được Hà Nội từ ngày 20-8-1945, nhưng những cuộc bạo động vẫn tiếp diễn. Bạo động bắt nguồn từ cả hai phía: Bạo động của
VM tiêu diệt những phần tử đối kháng; bạo động của những đảng phái đối lập chống
lại VM. Tại Hà Giang, Vĩnh Yên và Hà
Đông, VM gặp sự kháng cự mạnh mẽ của các chiến sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng.
(Hoàng Văn Đào, Việt Nam Quốc Dân Đảng,
Sài Gòn: 1970, tr. 258.)
Ngày
21-8-1945, VM vận động các đoàn thể họp mít-tinh tại Hà Nội, lập ra một kiến
nghị gồm ba điểm: 1) Yêu cầu vua Bảo Đại thoái vị và giao quyền cho một chính
phủ lâm thời do Mặt trận VM thành lập. 2) Yêu cầu Mặt trận VM thảo luận với các
đảng phái khác để thành lập chính phủ lâm thời. 3) Yêu cầu tất cả các đảng
phái, các tầng lớp dân chúng ủng hộ chính phủ lâm thời để củng cố nền độc lập
quốc gia. Bản kiến nghị nầy được chuyển bằng điện tín về Huế. (Philippe
Devillers, Histoire du Viêt-Nam de 1940 à
1952, Editions Du Seuil, Paris 1952, tr. 137.)
Về
phía Nhật, tại bộ tham mưu quân đoàn 38 của Nhật đóng ở Hà Nội, người Nhật chủ
trương rằng quân đội Nhật bại trận, nhưng sẽ không nhượng chỗ cho quân Đồng
minh thắng trận, mà chỉ nhượng cho những ai có khả năng tiếp tục nhiệm vụ lịch
sử của Nhật Bản, là giải phóng châu Á ra khỏi tay thực dân da trắng. (Philippe
Devillers, sđd. tr. 136.) Vì vậy, khi Nhật Bản đầu hàng, quân đội Nhật
tại Đông Dương hạ võ khí, rút lui vào các căn cứ quân sự, chờ ngày bị giải giới,
để cho người Việt tự do hoạt động trước khi quân Đồng minh có mặt.
Trong
khi đó, chính phủ Trần Trọng Kim không có bộ Quốc phòng, không có lực lượng võ
trang để giữ gìn an ninh, trật tự và bảo vệ chế độ. Lúc đó, các cơ quan hành chánh theo truyền thống
cũ từ thời Pháp thuộc, chỉ có một số lính lệ hoặc bảo an binh giữ trật tự các
cơ quan, không được trang bị đầy đủ, chỉ có tính cách hình thức hoặc lễ
nghi.
Thời
gian nầy là cơ hội thuận tiện cho lực lượng VM tung hoành, không bị ai chận đứng. Đây là một trong những lý do giải thích vì
sao chỉ với một lực lượng nhỏ khoảng dưới 5,000 đảng viên, (Philippe Devillers,
sđd. tr. 182) mà VM cướp được chính
quyền.
VUA
BẢO ĐẠI TRÁNH NỘI CHIẾN
Sau
khi Nhật Bản tuyên bố đầu hàng ngày 14-8-1945, Phạm Quỳnh cùng Trần Văn Chương,
(nội các phó tổng trưởng), và Nguyễn Duy Quang, nội các đại thần, đã họp riêng
với vua Bảo Đại chiều ngày 15-8-1945. Nội
dung cuộc họp không được tiết lộ, nhưng cuộc họp đã bị Phạm Khắc Hòe, lúc đó thế
Phạm Quỳnh làm tổng lý ngự tiền văn phòng của vua Bảo Đại, biết và bí mật báo
cáo với mật trận VM cộng sản. (Phạm Khắc Hòe, Những ngày cuối cùng của triều đình nhà Nguyễn, Nxb Thuận Hóa, Huế,
1994, tt. 55-57.)
Về
phía người Nhật, được tin VM nổi lên ở ngoài Bắc, viên đại sứ Nhật ở Huế là
Massayuki Yokoyama đến gặp vua Bảo Đại, đề nghị vua Bảo Đại dùng lực lượng của
Nhật tiêu diệt VM, vì tuy thất trận trên thế giới, quân đội Nhật ở Đông Dương vẫn
còn nguyên vẹn, đủ sức can thiệp va đàn áp VM chỉ là một lực lượng nhỏ bé, thiếu
trang bị so với quân đội Nhật.
Lo
sợ nội chiến xảy ra trước sự lợi dụng của ngoại bang, vua Bảo Đại từ chối đề
nghị của Yokoyama. (Theo lời kể của ông
Phan Văn Vỹ, nhị đẳng thị vệ thời vua Bảo Đại, người trực gác buổi tối khi
Yokoyama đến gặp vua Bảo Đại. Ông cho biết
chính ông đã đánh thức và báo tin cho nhà vua, để nhà vua ra tiếp khách.)
Một
thông tin khác cho biết thêm rằng viên đại sứ Nhật ở Huế xác định với vua Bảo Đại
rằng chỉ cần 2 giờ đồng hồ là quân đội Nhật sẽ dẹp tan cuộc nổi loạn ở Huế. (Daniel
Grandclément, Bao Dai ou les derniers
jours de l'empire d'Annam, Paris: Éditions Jean-Claude Lattès, 1997, tr.
157.)
Không
phải chỉ nói với vua Bảo Đại, người Nhật còn đề nghị với thủ tướng Trần Trọng
Kim. Sau đây là lời thuật của Trần Trọng
Kim: “Lúc bấy giờ người Nhật có đến bảo tôi: “Quân đội Nhật còn trách nhiệm
giữ trật tự cho đến khi quân Đồng minh đến thay. Nếu chính phủ Việt Nam công nhiên có lời mời
quân Nhật giúp, quân Nhật còn có thể giữ trật tự”. Tôi nghĩ quân Nhật đã đầu hàng, quân Đồng
minh sắp đến, mình nhờ quân Nhật đánh người mình còn nghĩa lý gì nữa, và lại
mang tiếng “cõng rắn cắn gà nhà”. Tôi từ chối không nhận.” (Lệ Thần Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Sài Gòn: Nxb. Vĩnh Sơn, 1969, tr. 93.)
Ngày
18-8-1945, Trần Trọng Kim dự tính tập họp các lực lượng quốc gia, lập ra “Uỷ
ban cứu quốc”, đưa ra bản tuyên ngôn kêu gọi các đảng phái chính trị cùng nhau
cổ võ nền thống nhất và độc lập dân tộc. (Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, California: Xuân Thu, 1990, tr. 177.) Công việc chưa tiến hành thì tình hình tiếp tục
thay đổi nhanh chóng.
VẬN
ĐỘNG NGOẠI GIAO QUỐC TẾ
Về
đối ngoại, vua Bảo Đại hoàn toàn không biết Pháp đã chuẩn bị tái chiếm Đông
Dương ngay từ Hội nghị Brazzaville ở
Congo, được xem là thủ phủ của Pháp tại Phi Châu, từ 30-1 đến 8-2-1944. Thiếu thông tin liên lạc, nhà vua cũng không
biết được quyết định trong tối hậu thư Potsdam gởi cho Nhật Bản ngày 26-7-1945.
(Anh, Hoa Kỳ họp hội nghị Potsdam, ngoại ô Berlin soạn tối hậu thư, Trung Hoa gởi
điện văn đồng ý.) Theo tối hậu thư nầy,
sau khi Nhật đầu hàng, ở Đông Dương, Trung Hoa (Quốc Dân Đảng) sẽ giải giới
quân Nhật ở phía bắc vĩ tuyến 16 và Anh sẽ giải giới quân Nhật ở nam vĩ tuyến
16.
Vua
Bảo Đại gởi công hàm ngày 18-8-1945 kêu gọi sự ủng hộ của các cường quốc trên
thế giới là Hoa Kỳ, Trung Hoa (lúc đó do Quốc Dân Đảng lãnh đạo), Anh Quốc, nhất
là kêu gọi Pháp trao trả độc lập lại cho Việt Nam, đừng tái lập nền cai trị
Pháp dưới bất cứ một hình thức nào.
Các
bản công hàm nầy bằng tiếng Pháp được các đài phát thanh Nhật ở Sài Gòn, Hà Nội
và Tokyo công bố rộng rãi. De Gaulle im
lặng vì De Gaulle muốn tái chiếm Đông Dương.
Chủ trương thực dân của De Gaulle thể hiện rõ trong tuyên bố Brazzaville
(Phi Châu) ngày 8-2-1944, cũng như trong tuyên bố ngày 24-3-1945, quyết định
tái lập Liên bang Đông Dương.
Các
nước Đồng minh cũng hoàn toàn im lặng. (Bảo Đại, sđd, tt. 177-179; và David G. Marr, Vietnam 1945, The Quest for Power, University of California Press,
1995, tr. 361.) Lý do sự im lặng của các
nước Tây phương bắt nguồn từ sự thay đổi chính sách của Hoa Kỳ về Đông Dương
sau khi tổng thống Hoa Kỳ là Franklin Roosevelt từ trần ngày 12-4-1945 (trong
nhiệm kỳ). Phó tổng thống Harry Truman
lên thay, và thay luôn chính sách của Hoa Kỳ về Đông Dương.
Truman
chủ trương tôn trọng chủ quyền Pháp ở Đông Dương, để Pháp ủng hộ Hoa Kỳ tại
châu Âu. Lúc đó Hoa Kỳ muốn đoàn kết các
nước Tây Âu chống lại sự bành trướng của Liên Xô. (Robert S. McNamara, In Restrospect, New York: Times Books, 1995, tr. 31; và Spencer C.
Tucker chủ biên, Encyclopedia of the
Vietnam War, a Political, Social, and Military History, Volume three, Santa
Barbara, California: 1998, tr. 888.)
Tại
Việt Nam, tiếp tay với vua Bảo Đại, hoàng hậu Nam Phương gởi qua Âu Châu một
thông điệp, nhờ bạn bè của bà giúp đỡ, lên tiếng kêu gọi các nước trong khối Tự
do can thiệp, để kiến tạo hòa bình cho Việt Nam, nhưng vô vọng vì chẳng ai đáp ứng
lời kêu gọi của bà.
Trong
lúc vua Bảo Đại nao núng vì Pháp không chịu tuyên bố trao trả độc lập cho Việt
Nam, và các nước Đồng minh không đáp ứng nguyện vọng độc lập của người Việt do
nhà vua đưa ra, thì ngày 21-8-1945, mặt trận VM gởi điện vào Huế yêu cầu vua Bảo
Đại thoái vị.
GIÃ
TỪ NGAI VÀNG
Chính
phủ Trần Trọng Kim không có quân đội bảo vệ chính quyền và trật tự xã hội, chấp
nhận rút lui, và xin từ chức ngày 20-8-1945.
Vua Bảo Đại yêu cầu chính phủ Trần Trọng kim ở lại xử lý thường vụ và ủy
cho Trần Trọng Kim lập chính phủ khác.
Khi
được điện tín ngày 21-8-1945 từ Hà Nội của mặt trận VM, thủ tướng Trần Trọng
Kim đề nghị với vua Bảo Đại: “Xin Ngài đừng nghe người ta bàn ra bàn
vào. Việc đã nguy cấp lắm rồi, Ngài nên
xem lịch sử của vua Louis XVI bên Pháp và vua Nicholas II bên Nga mà thoái vị
ngay là phải hơn cả. Vì dân ta đã bị bọn
Việt Minh tuyên truyền và đang hăng hái về việc cách mệnh như nước đang lên mạnh,
mình ngăn lại thì vỡ lở hết cả. Mình thế
lực không có, bọn Việt Minh lại có dân chúng ủng hộ, nên để cho họ nhận lấy
trách nhiệm bảo vệ nền độc lập của nước.” (Lệ Thần Trần Trọng Kim, sđd. tt. 92-93.)
Louis
XVI là vua nước Pháp, trị vì 1774-1792.
Tuy cách mạng Pháp xảy ra năm 1789, nhưng đến năm 1792 Louis XVI mới
chính thức bị lật đổ và bị lên máy chém năm 1793. Nicholas II, hoàng đế cuối cùng của nước Nga,
trị vì 1894-1917, bị truất phế sau cách mạng cộng sản năm 1917. Ông ta và toàn gia đình bị cộng sản Nga bắn
chết năm 1918.
Ngoài
lời khuyên trên đây, vua Bảo Đại nhận thấy chính phủ Trần Trọng Kim bắt đầu tan
rã. “Sáng
ngày hôm sau 23, chung quanh tôi hoàn toàn trống rỗng. Chẳng thấy Trần Trọng Kim, cũng chẳng thấy bất
cứ một Bộ trưởng nào vào điện. Chỉ còn
vài người lính phụ trách mở và đóng cửa điện, đi lại sân chầu vắng lạnh. Trong dịp quốc lễ gần đây, chưa tới hai
tháng, sân chầu đã đầy ních các quan và kẻ thân hoàng cung. Bữa nay, chỉ còn riêng hoàng tùng đệ Vĩnh Cẩn,
còn trung thành đứng cạnh tôi mà thôi.” (Bảo Đại, sđd. tr. 184.) Nói một cách
khác, nhà vua cảm thấy cô đơn, cô thế và hoàn toàn bị bỏ rơi.
Chẳng
những cận thần tránh mặt, nhà vua cũng không được các cường quốc đáp ứng lời
kêu gọi của mình. “...Trong khi lời kêu gọi của tôi gởi cho tổng
thống Truman, cho thống chế Tưởng Giới Thạch, cho quốc vương Anh, cho tướng De
Gaulle lại im lìm không có hồi âm...” (Bảo Đại, sđd. tr. 184.)
Trong
lúc cô thế, vua Bảo Đại lại không biết lai lịch Hồ Chí Minh, và VM. Cũng như nhiều người Việt lúc đó, nhà vua tưởng
rằng Hồ Chí Minh và VM là những người yêu nước, được quần chúng ủng hộ, và được
cả các nước Đồng minh giúp đỡ (theo lời tuyên truyền của VM), nên nhà vua sẵn
sàng giao quyền cho Hồ Chí Minh và VM.
Ngoài ra, một điểm quan trọng là vua Bảo Đại là người bản tính hiền
lành, không tham quyền cố vị, không thiết tha quyền lực, không có cá tính mạnh,
đến độ nhà vua bị xem là yếu đuối.
Suốt
trong thời gian cầm quyền, Bảo Đại hoàn toàn không ra lệnh giết hay khủng bố,
tù đày một người nào. Có thể nói không một
người nào tiếp xúc với Bảo Đại, kể cả những địch thủ của ông ta, mà trách cứ về
tính tình Bảo Đại.
Vì
tất cả các lý do trên, cuối cùng vua Bảo Đại quyết định thoái vị theo lời yêu cầu
của bức điện từ Hà Nội ngày 21-8-1945.
Ngày 25-8-1945, vua Bảo Đại tuyên chiếu thoái vị và thông báo cho đại diện
VM ở Huế biết. Chiếu thoái vị được niêm
yết ở Phu Văn Lâu, ở phía ngoài hoàng thành Huế, nơi công bố các chiếu dụ, mệnh
lệnh của nhà vua, kết quả thi Hội và thi Đình.
Sau
đó lễ thoái vị diễn ra ngày 30-8-1945 tại Ngọ môn, Huế. Nhà vua trao bảo kiếm và quốc ấn, tượng trưng
uy quyền của triều đình nhà Nguyễn, cho phái đoàn đại diện VM từ Hà Nội vào là
Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận.
KẾT
LUẬN
Triều
đại vua Bảo Đại kéo dài trong 20 năm (1926-1945), nhưng từ 1926 đến 1932 là thời
kỳ ông còn du học. Vua Bảo Đại chỉ thực
sự cầm quyền từ 1932 cho đến 1945. Lúc
vua Bảo Đại thoái vị, còn gần hai tháng nữa ông đầy 32 tuổi. Từ nay cựu hoàng dùng tên khai sinh là Nguyễn
Phúc Vĩnh Thụy.
Như
thế là chấm dứt triều đại Bảo Đại (trị vì 1926-1945), chấm dứt nhà Nguyễn
(1802-1945), và chấm dứt luôn nền quân chủ ở Việt Nam. Lúc đó, đảng CSĐD và mặt trận VM tuy chỉ có
khoảng dưới 5,000 đảng viên, nhưng là đoàn thể chính trị có tổ chức, nhất là tổ
chức hạ tầng cơ sở khắp nước, nên nhanh tay cướp được chính quyền ở Hà Nội cũng
như ở các địa phương. Các đảng phái khác
ở trong nước cũng như ở Trung Hoa, thiếu
chuẩn bị, đành thất thế.
Với
tấm lòng yêu nước, đoàn kết và hiếu hoà, vua Bảo Đại chấp nhận thoái vị, tuyên
bố trao quyền cho VM, tạo ra một thời cơ lịch sử rất thuận lợi cho Hồ Chí Minh
và mặt trận VM, giúp cho ông ta và chính phủ Dân Chủ Cộng Hòa thế kế tục chính
thống hợp pháp, chẳng những trước quốc dân Việt Nam, mà cả trên chính trường quốc
tế.
Tuy
nhiên, chẳng bao lâu sau, Hồ Chí Minh và VM để lộ bản chất CS, đi ngược lại với
ý nguyện của dân tộc, nên sau khi thoát khỏi sự kiểm soát của VM, gặp lại Trần
Trọng Kim ở Hồng Kông tháng 8-1947, lời đầu tiên cựu hoàng Bảo Đại nói với Trần
Trọng Kim là: “Chúng mình già trẻ mắc lừa
bọn du côn.” (Lệ Thần Trần Trọng Kim, sđd.
tr. 146.) (Trích: Bảo Đại (1913-1997),
Toronto: Nxb. Non Nước, 2014.)
TRẦN
GIA PHỤNG
(Toronto,
Canada)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét