Hiện
nay, theo đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN), ngày sinh chính thức của Hồ Chí Minh
(HCM) là ngày 19-5-1890. Tuy nhiên, có tài
liệu cho biết HCM có nhiều ngày sinh khác nhau.
<!-->
TÀI
LIỆU THỨ NHỨT
Theo
tài liệu ông Lê Thanh Cảnh, một người cùng học lớp với HCM ở trường Quốc Học
(Huế), thì HCM lúc đó có tên là Nguyễn Sinh Cung, có khi phát âm theo giọng
vùng từ Nghệ An đến Huế là Nguyễn
Sanh Côn, đậu Tiểu học năm 1907, và nhập học lớp
nhứt niên trường Quốc Học vào đầu niên khóa năm nầy, giữa tháng 9-1907. Nhứt niên là năm thứ nhứt bậc trung học tức lớp
6 ngày nay. Cũng theo tài liệu nầy,
tháng 4-1908, tại Huế xảy ra những cuộc biểu tình xin xâu tức xin hạ giảm xâu
thuế, trong phong trào chung ở miền Trung, thường gọi là Trung Kỳ dân biến. Nguyễn Sanh Côn tham gia cuộc biểu tình nầy
và bị truy nã, phải bỏ học, trốn khỏi Huế. Lúc đó Nguyễn Sanh Côn (Nguyễn Sinh
Cung) khoảng 18 tuổi. (Lê Thanh Cảnh,tạp
chí Hoài niệm Quốc Học, Huế: 1956,
tt. 37-39.)
Vào
đầu thế kỷ 20, người Việt còn dùng âm lịch để tính tuổi. Tuổi âm lịch gọi là tuổi ta. Tuổi dương lịch gọi là tuổi tây. Tuổi ta hay tuổi âm lịch lớn lơn tuổi tây hay
tuổi dương lịch một tuổi. Tác giả Lê
Thanh Cảnh không cho biết tuổi Nguyễn Sinh Cung lúc đó là tuổi âm lịch hay tuổi
dương lịch. Vì vậy không biết Nguyễn
Sinh Cung, sau có tên là HCM sinh năm 1890 hay 1891?
Sau
biến cố ở Huế, Nguyễn Sinh Cung vào Quảng Nam, Quảng Ngãi, đến Bình Thuận. Tại Bình Thuận, Nguyễn Sinh Cung dùng tên mới
là Nguyễn Tất Thành xin vào dạy Quốc ngữ ở trường Dục Thanh (Phan Thiết) khoảng
tháng 9-1910. (Hồ Tá Khanh, Thông sử công
ty Liên Thành, Paris: 1983, tr. 34.)
Vào
đầu thế kỷ 20, nền giáo dục tân học bắt đầu được áp dụng, thanh thiếu niên lớn
tuổi mới đi học, nên 17 hay 18 tuổi vào học lớp nhứt niên tức lớp 6 ngày nay là
chuyện bình thường. Trường Dục Thanh do
Công ty Liên Thành thành lập ở Phan Thiết (Bình Thuận) năm 1907, dạy cho học
viên chương trình sơ đẳng, biết đọc biết viết chứ không phải trường lớp chính
quy của nhà nước. Trường Dục Thanh được
lệnh đóng cửa năm 1911. (Hồ Tá Khanh, sđd.
tr. 34.)
TÀI
LIỆU THỨ HAI
Sau
Phan Thiết, Nguyễn Tất Thành vào Sài Gòn, lấy tên là Ba, xin làm phụ bếp trên tàu
Amiral Latouche-Tréville và theo tàu
nầy đi Pháp, rời Sài Gòn ngày 5-6-1911. Ông
đặt chân đến Marseille, hải cảng miền nam nước Pháp ngày 6-7-1911. (Lê Thị
Kinh, Phan Châu Trinh (1872-1926) qua những
tài liệu mới, quyển 2, tập 1, Nxb. Đà Nẵng, 2001, tr. 210.)
Chỉ
hơn hai tháng sau, ngày 15-9-1911, tại Marseille, Nguyễn Tất Thành viết tay hai
lá đơn bằng tiếng Pháp, cùng nội dung, chỉ khác tên người nhận; một gởi cho tổng
thống Pháp và một gởi cho bộ trưởng bộ Thuộc địa Pháp, xin đặc ân để được vào học
Trường Thuộc Địa Paris (École Coloniale de Paris). Sau đây là bản dịch lá đơn của Nguyễn Tất Thành:
Marseille,
ngày 15 tháng Chín năm 1911
Kính
gởi Tổng thống Cộng Hòa,
Tôi
xin trân trọng thỉnh nguyện lòng hảo tâm của Ngài ban cho tôi đặc ân được nhận
vào học nội trú Trường Thuộc Địa.
Tôi
hiện đang làm công nhân trong công ty Chargeurs Réunis (tàu Amiral Latouche-Tréville)
để sinh sống.
Tôi
hoàn toàn không có chút tài sản nào, nhưng rất khao khát học hỏi. Tôi ước mong trở nên hữu ích cho nước Pháp đối
với đồng bào tôi, đồng thời làm thế nào cho họ hưởng được những ích lợi của nền
học vấn.
Tôi
người gốc tỉnh Nghệ An, xứ An Nam.
Trong
khi chờ đợi câu trả lời mà tôi hy vọng là thuận lợi của Tổng Thống, xin Ngài nhận
trước nơi đây lòng biết ơn của tôi.
Nguyễn
Tất Thành, sinh tại Vinh năm 1892,
con
của ông Nguyễn Sinh Huy (Phó bảng).
Học
sinh Pháp văn, Quốc ngữ và chữ Hán.
Ở
đây, khoan bàn đến chuyện nội dung lá đơn, mà chỉ xin lưu ý là vào cuối đơn,
Nguyễn Tất Thành tức HCM tự ghi là ông ta sinh năm 1892. Đây là tài liệu thứ hai về năm sinh của HCM.
TÀI
LIỆU THỨ BA
Trong
bài báo nhan đề “Les Vietnamiens dans la franc-maçonnerie coloniale”, tạp chí Revue
française D'Histoire d'Outre-mer, tam cá nguyệt 3, 1998,
Paris: Société Française d'Histoire d'Outre-mer, tr. 105,
Jacques Dalloz viết:
“Au début de 1922, il s'est présenté
l'initiation de la loge la
Fédération universelle (Paris GODF), recommandé
par le graveur Boulanger. Sa fiche
indique: “Nguyen Ai Quấc, né
le 15-2-1895 (Annam), retoucheur en photo, dessinateur”. Xin tạm dịch: "Vào đầu năm
1922, do sự giới thiệu của một nhà chạm trỗ tên là Boulanger, ông ta dự lễ gia
nhập của tổ Fédération universlle (Paris GODF).
Phiếu của ông ta ghi là: “Nguyễn Ái Quấc, sinh ngày 15-2-1895 (An Nam),
thợ tô sửa hình, thợ vẽ.” [Chữ An Nam vào thời đó chỉ Trung Kỳ.]
Sau bài báo kể trên, Jacques Dalloz còn xuất bản
sách Francs-maçons d'Indochine,
Paris: Éditions Maçonniques de France, 2002.
Sách nầy trình bày đầy đủ những nhân vật Tam Điểm ở Việt Nam, trong đó
có Nguyễn Ái Quấc tức HCM cũng với ngày tháng năm sinh vừa kể.
Trong đơn xin vào học Trường Thuộc Địa Paris, Nguyễn
Tất Thành tức HCM, tự ghi là sinh năm 1892.
Nay trong hồ sơ gia nhập hội Tam Điểm ở Paris, Nguyễn Ái Quấc (Quốc) tức
là HCM, tự ghi là sinh năm 1895. Hai năm
sinh trên đây do chính HCM tự tay ghi, nhưng lại khác nhau. Rồi HCM sẽ còn chọn thêm một ngày sinh khác nữa
như sau.
TÀI LIỆU THỨ TƯ
Tại
Hà Nội, ngày 6-3-1946, tại số 38 đường Lý Thái Tổ, với tư cách chủ tịch chính
phủ Liên hiệp kháng chiến, HCM ký thỏa ước Sơ
bộ với Pháp, gồm 2 điều chính: 1) Pháp thừa nhận Việt Nam là một quốc gia tự
do (état libre), có chính phủ riêng, nghị viện riêng và tài chính riêng trong
Liên Bang Đông Dương (LBĐD) và trong Liên Hiệp Pháp (LHP). 2) Việt Nam sẵn sàng tiếp đón quân đội Pháp đến
thay thế quân đội Trung Hoa để giải giáp quân đội Nhật.
Dầu
đã thề chống Pháp đến cùng trong ngày thành lập chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa (2-9-1945), HCM vẫn ký thỏa ước theo đó điều 1 ghi rằng Việt Nam nằm trong
LBĐD và trong LHP. Như thế, về hành chánh,
Việt Nam dưới quyền của cao uỷ Pháp, người đứng đầu LBĐD.
Ngày
18-5-1946, đô đốc Georges Thierry d’Argenlieu, cao ủy Pháp tại Đông Dương, đến
kinh lý Hà Nội. Trên danh nghĩa,
D’Argenlieu là cao uỷ, đại diện chính phủ Pháp tại Đông Dương, đứng đầu LBĐD.
Theo thỏa ước Sơ bộ ngày 6-3-1946, Việt
Nam là một quốc gia trong LHP và trong LBĐD.
Theo nghi thức hành chánh và giao tế, khi đón tiếp cao uỷ đại diện chính
phủ Pháp, đứng đầu LBĐD, chính phủ Việt Nam phải treo cờ chào mừng D’Argenlieu.
Tuy
nhiên, nếu treo cờ chào mừng quan Tây đến Hà Nội, thì hoặc bị dân chúng chê cười,
hoặc bị dân chúng phản đối vì lúc đó dân chúng rất căm thù Pháp và nhất là dân
chúng chưa quên việc HCM thề cương quyết chống Pháp đến cùng ngày 2-9-1945.
Nhà
nước Việt Minh CS liền tuyên truyền rằng treo cờ trong ba ngày từ 19 đến
21-5-1946 là để mừng sinh nhựt chủ tịch HCM là ngày 19-5. Mừng sinh nhựt thì treo cờ một ngày mà thôi,
chứ treo chi tới ba ngày là thời gian D’Argenlieu có mặt ở Hà Nội? Hơn nữa, trước đây, trên đường hoạt động chính
trị, HCM không bao giờ nói chuyện sinh nhựt của mình, thì tại sao nhân cuộc thăm
viếng của D’Argenlieu lại có chuyện sinh nhựt HCM?
Vì
các lẽ đó, dân chúng cho rằng HCM ngụy tạo sinh nhựt để có lý do treo cờ nhằm đón
tiếp D’Argenlieu vì D’Argenlieu đứng đầu LBĐD, mà Việt Nam nằm trong LBĐD, có
nghĩa là D’Argenlieu là lãnh đạo của HCM nên HCM phải ra lệnh treo cờ để đón tiếp
quốc trưởng. Từ đó, ngày 19-5 được CSVN
xem là ngày sinh chính thức của HCM.
TÀI
LIỆU THỨ NĂM
Ngày
11-4-2001, trong bài nói chuyện về HCM tại Trường Cán Bộ Quản Lý Giáo Dục Hà Nội,
một cán bộ CS tên là Sơn Tùng cho biết rằng vào năm 1950, ông đã gặp ông Cả Khiêm
tức Nguyễn Sinh Khiêm, còn có tên là Nguyễn Tất Đạt, anh của Nguyễn Sinh Cung tức
Nguyễn Tất Thành tức HCM. Nhân dịp nầy,
ông Cả Khiêm giao cho ông Sơn Tùng cuốn Tất
Đạt tự truyện, trong đó có đề cập đến HCM.
Dựa vào tài liệu của ông Cả Khiêm,
Sơn Tùng quả quyết rằng HCM sinh năm 1891. (Minh Võ, Hồ Chí Minh nhận định tổng hợp,
Virginia: Nxb. Tiếng Quê Hương, 2003, tr. 400.)
Gần
đây, theo sách Đèn cù của Trần Đĩnh,
California: Người Việt Books, 2014, chương mười bốn, trang 169, tác giả nầy cho
biết rằng vào đầu năm 1960, Tố Hữu thành lập nhóm viết tiểu sử HCM với danh nghĩa
là Ban Nghiên cứu lịch sử đảng, gồm có Phạm Bình, Nguyễn Huy Tưởng, Hoài Thanh,
Trần Đĩnh. Tố Hữu cử hai nhà văn đến tận
quê của HCM ở Nghệ An để sưu tầm tài liệu.
Báo cáo của cuộc sưu tầm cho biết rằng HCM sinh năm 1891 (tân mão). Báo cáo nầy cho rằng đó là lời của của ông Cả Khiêm, anh trai của HCM. Ông Cả Khiê m“nói
thế, có bằng chứng hẳn hoi trong gia
đình và họ hàng”.
Ban
viết tiểu sử trình lên cho HCM, thì HCM trả lời rằng “người ta thế nào thì cứ để thế không sửa sai gì hết”. Điều đó có nghĩa là HCM không muốn sửa đổi ngày
tháng năm sinh đã được đưa ra trước đây tức ngày 19-5-1890. Nhóm viết tiều sử cho rằng HCM muốn giữ năm
1890 cho dân chúng dễ nhớ số tròn.
CHUYỆN
MỘT LÁ SỐ TỬ VI
Tài
liệu của ông Sơn Tùng năm 2001 và tiết lộ trong sách Đèn cù năm 2014 dựa trên bằng chứng trong gia đình của ông Cả
Khiêm, anh ruột của HCM, phù hợp với một lá số tử vi trong sách Tử vi đẩu số tân biên do Vân Đàng Thái
Thứ Lang soạn và ấn hành ở Sài Gòn năm 1957.
Trong
sách nầy, lá số không đề tên đương số, mà tác giả Vân Đằng chỉ ghi chú như sau:
“Số gian hùng. Năm Bính Thân – 1956 - 66
tuổi. Đã có sự nghiệp lớn lao. Nhưng hại dân hại nước.” [66 tuổi theo lá số
tử vi là tuổi âm lịch, tương đương 65 tuổi dương lịch.]
So
sánh tuổi tác của các lãnh tụ chính trị Việt Nam lúc đó (65 tuổi năm 1956), ai
cũng đều cho rằng đây là lá số tử vi của HCM.
Theo lá số nầy, đương số sinh ngày 6 tháng 6 năm tân mão. (Vân Đằng Thái
Thứ Lang, Tử vi đẩu số tân biên, Sài
Gòn: Tín Đức Thư Xã,
1957, phụ bảng D cuối sách.) Ngày 6 tháng
6 năm tân mão tức ngày 11-7-1891.
Bỏ
qua một bên chuyện tử vi của đương số vì không phải là chuyện lịch sử. Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào tác giả Vân
Đằng Thái Thứ Lang biết được giờ, ngày, tháng và năm sinh của đương số để an
sao lá số tử vi nầy?
Có
nguồn tin cho rằng tác giả Vân Đằng Thái Thứ Lang thuộc một gia đình văn học
khoa bảng Hán học, phụ thân là vị cử nhân Hán học, đã từng giảng dạy tại Đại học
Văn khoa Sài Gòn trước 1975, hai bác ruột đều là cử nhân, ông nội là vị tiến sĩ
Hán học, ông cố là vị phó bảng Hán học…
Gia đình của tác giả Vân Đằng Thái Thứ Lang lại là chỗ quen biết thân
tình với gia đình Nguyễn Sinh Sắc. Nhờ vậy,
biết rõ giờ, ngày
tháng năm sinh của các con ông Sắc, nên tác giả Vân Đàng Thái Thứ Lang mới an
sao được lá số tử vi nầy. Tác giả sách Tử vi đẩu số tân biên không đề tên thật
trên sách, vì vậy ở đây xin tôn trọng ý muốn của tác giả. Xin tồn nghi về chuyện ngày tháng năm sinh của
đương số để tìm hiểu thêm.
KẾT
LUẬN
Qua
các tài liệu trên đây, HCM nhiều lần tự khai ngày tháng năm sinh hoàn toàn khác
nhau, nên không biết ngày nào là đúng ngày sinh HCM. Điểm cần chú ý là vào thời HCM ra đời, việc
làm giấy khai sinh chưa được phổ thông và người Việt còn dùng âm lịch, chưa
dùng dương lịch. Vào thời nầy, rất ít người được gia đình làm giấy khai sinh
khi mới ra đời và sổ sách giấy khai sinh còn đơn giản, không lưu trữ được, nên
rất dễ sửa đổi hoặc giả mạo. Việc đối
chiếu, so sánh giữa âm lịch và dương lịch còn khó khăn. Đó là hoàn cảnh thuận lợi cho những người muốn
che giấu nhân thân, gặp đâu khai đó, tự ý khai báo khác nhau về lý lịch của mình
trong khi hoạt động.
Vì
vậy, khi làm đơn xin vào các cơ quan hay tổ chức của Pháp, HCM tự ý khai ngày
tháng năm sinh dương lịch khác nhau tùy theo điều kiện do hoàn cảnh đòi hỏi, và
nhất là còn tùy bản chất của một người chuyên thay tên đổi họ nhằm đánh lừa xã
hội. Như thế, năm sinh HCM thì có thể là
1891, nhưng ngày tháng sinh HCM chắc chắn không phải là 19-5, và vẫn còn là một
bí ẩn.
(TORONTO,
28-9-2015)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét