Yên
Thế là một vùng đồi núi thấp ở trung du Bắc phần, nằm cách Hà Nội khoảng 50 cây
số về phía đông bắc, giữa rặng Cai Kinh ở phía bắc, thượng lưu sông Cầu ở phía
tây và thượng lưu sông Thương ở phía đông.
Vào thời nhà Nguyễn, Yên Thế thuộc tỉnh Bắc Ninh. Qua thời Pháp thuộc, Yên Thế thuộc về Bắc
Giang cho đến ngày nay. Phía bắc Yên Thế
(Yên Thế thượng) cao khoảng từ 100 đến 150 mét, trong khi càng xuống phía nam,
càng thoai thoải, nhiều đồng ruộng. Ở
Yên Thế, rừng cây rậm rạp, um tùm, rất tiện lợi cho việc ứng dụng du kích chiến
chống Pháp. Khí hậu tại đây quanh năm ẩm
thấp, sương mù, có nhiều loại muỗi truyền bịnh sốt rét chết người và nhiều thú
dữ.
<!>
(Nguồn:
Phỏng theo Paul Chack, Hoang-Tham Pirate,
Paris,
Les éditions de France, 1933, tt. 8-9.)
Từ năm 1888, Pháp cho làm đường xe lửa từ Hà Nội đi Lạng Sơn, để nối liền với con đường sắt sang Quế Lâm (Quảng Tây, Trung Hoa). Con đường nầy có một đoạn khá dài từ Phủ Lạng Thương đến Lạng Sơn, chạy dọc phía đông của vùng Yên Thế. Công trình nầy phải mất 7 năm mới hoàn thành. (Paul Chack, Hoang-Tham Pirate, Paris: Les Éditions de France, 1933, tr. 7.)
Yên
Thế một thời là địa bàn chiến khu chống Pháp của hai nhân vật lẫy lừng là Hoàng
Đình Kinh và Hoàng Hoa Thám.
(Nguồn:
Phỏng theo Paul Chack, Hoang-Tham Pirate,
Paris,
Les éditions de France, 1933, tt. 8-9.)
1.- XUẤT THÂN CỦA ĐỀ THÁM
Hoàng
Đình Kinh, một cai tổng ở tỉnh Bắc Giang, nổi lên hùng cứ Yên Thế năm 1885,
nhưng thất bại, nên bỏ trốn sang Trung Hoa năm 1886. Năm 1887, Cai Kinh trở về,
lập căn cứ ở vùng núi Đồng Nãi, phía bắc Yên Thế. Ông rất nổi danh, nên cả vùng núi nơi ông lập căn cứ được gọi là rặng Cai
Kinh. Cai Kinh bị ám sát chết khoảng
tháng 8-1888. Người ta không biết ai là
thủ phạm. Lúc bấy giờ, các thuộc hạ của
Cai Kinh chia nhau đóng giữ vùng Yên Thế và các vùng lân cận.
Pháp
tiếp tục tấn công và cuối cùng Pháp chiếm được toàn bộ vùng Yên Thế. Một số thủ lãnh nghĩa quân đem lính của mình
lần lượt ra đầu thú với Pháp, như đề Toán (13-4-1892), đề Kiều (16-4-1892), và
đề Sặt (20-4-1892). Tính đến ngày
1-6-1892, có tất cả 193 nghĩa quân mang theo 144 súng trường và 21 súng lục
(súng sáu viên) ra quy thuận với Pháp.
Sau vụ nầy, Hoàng Hoa Thám nổi lên thành lãnh tụ chống Pháp chính của
Yên Thế. (Paul Chack, sđd. tr. 17.)
Lúc
nhỏ Hoàng Hoa Thám tên là Trương Văn Nghĩa, con của ông Trương Văn Thận và bà
Lương Thị Minh, gốc làng Dị Chế, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Tác giả Paul Chack cho biết khi Pháp đánh chiếm
Hà Nội lần thứ hai năm 1882, Hoàng Hoa Thám được 20 tuổi. Vậy Hoàng Hoa Thám có thể sinh 1862. Cha mẹ chết sớm, ông theo người chú đến sống ở
làng Trũng, phủ Yên Thế, tỉnh Bắc Ninh.
Khi
Pháp chiếm Hà Nội năm 1882, Trương Văn Nghĩa gia nhập đạo quân chống Pháp của
lãnh binh Bắc Ninh là Trần Quang Loan.
Sau đó, Nghĩa theo Thân Bá Phúc, phó tướng của cai tổng Hoàng Đình Kinh,
tức Cai Kinh. Bá Phúc nhận Nghĩa làm con
nuôi. Bá Phúc và Nghĩa đi theo Cai Kinh
khi Cai Kinh bỏ trốn sang Trung Hoa năm 1886.
Cai Kinh rất quý mến tài trí của Nghĩa, cho đổi qua họ của mình là họ
Hoàng, đặt tên là Hoàng Hoa Thám, và phong chức chánh đề đốc, nên Hoàng Hoa
Thám được gọi là Đề Thám.
2.- HOẠT ĐỘNG CỦA ĐỀ THÁM
Sau
khi Cai Kinh bị ám sát năm 1888 và một số lãnh tụ Yên Thế đầu hàng Pháp năm
1892, Đề Thám cho tái lập nhiều căn cứ ở Nhã Nam. Từ đây, Pháp tập trung chú ý vào Đề
Thám. Pháp tiếp tục chiêu dụ các lãnh tụ
nghĩa quân. Tháng 2 năm 1894, Bá Phúc,
cha nuôi của Đề Thám, đóng căn cứ ở Luộc Hạ, dẫn một số thuộc hạ ra đầu thú với
Pháp. Pháp liền sử dụng Bá Phúc để ám
sát Đề Thám. Tháng 4 năm 1894, Bá Phúc mời
Đề Thám cùng một viên quan đại diện cho tổng đốc Bắc Ninh là Lê Hoan, đến Luộc
Hạ để bàn thảo điều kiện cho Đề Thám quy hàng.
Khi gặp nhau, Bá Phúc đưa chén trà mời Đề Thám. Đề Thám tinh ý, không uống, mà giao cho một viên
tùy tùng của Bá Phúc uống. Uống xong,
tên nầy chết tại chỗ.
Ngày
18-5-1894, Bá Phúc đến thăm Đề Thám ở Hố Chuối (Hữu Thuế). Phúc lén đặt một cái tráp (hộp nhỏ bằng gỗ)
dưới gầm giường. Trong tráp có chứa quả
mìn. Sau khi đốt ngòi nổ, Phúc kiếm cớ
cáo từ. May mắn, Đề Thám phát hiện được
âm mưu nầy. Ông ra lệnh nghĩa quân rút
ra xa, để cho quả mìn nổ, và phục binh sẵn ở đó. Pháp được tin nầy, tưởng Đề Thám đã chết, liền
tung hai cánh quân từ Nhã Nam và từ Bắc Ninh, gồm khoảng 450 người, đến tấn
công Hố Chuối, không ngờ bị phục kích nặng nề.
Khoảng vài chục lính Pháp Việt bị chết và bị thương, trong đó phó giám
binh Trouvé bị chết, giám binh Lambert và công sứ Muselier bị thương nặng. Ngày 22-5-1894, quân Pháp tấn công Hố Chuối
(Hữu Thuế) lần nữa, nhưng Đề Thám đã rút qua Thái Nguyên. Pháp phá hủy hoàn toàn căn cứ Hố Chuối.
Ba
tháng sau, Đề Thám đem quân trở về Yên Thế lập căn cứ mới ở Lạng Thương, giữa
Chợ Gò và Hữu Thuế, phía bắc của Nhã Nam.
Ngày 17-9-1894, bang Kinh, một thuộc tướng của Đề Thám, phục kích trên
đường xe lửa Hà Nội-Lạng Sơn, đoạn giữa Suối Ngành (Ghềnh) và Bắc Lệ (Bắc Lộ),
bắt được hai người Pháp là Chesnay và Logiou.
Chesnay là chủ thầu việc đốn cây để làm đường xe lửa và Logiou là nhân
viên của Chesnay. Đề Thám báo tin cho
người Pháp ở Nhã Nam biết.
Pháp
nhờ giám mục Velasco, người Tây Ban Nha, phụ trách giáo xứ Bắc Ninh, đến Yên Thế
điều đình. Giám mục Velasco gởi 3 linh mục
tên là Khâm,chánh xứ làng đạo Bi-noi, Trần Chính Nhã, làng Dao-ngan, và Nguyễn
Đức Hạnh từ Phủ Lạng Thương. Ba linh mục
nầy đến Yên Thế, bị nghĩa quân bắt đưa về gặp Đề Thám. Đề Thám cho linh mục Khâm về mời giám mục
Velasco đến nói chuyện, còn giữ hai linh mục kia ở lại làm con tin. Giám mục Velasco đến một mình. Đề Thám đón vào thảo luận với giám mục tại một
ngôi chùa trong rừng. Khi cần, thì có
người của Đề Thám đưa tin của giám mục Velasco về Bắc Ninh để hỏi ý kiến Phủ
toàn quyền Pháp. (Paul Chack, sđd.
tt. 104-105.)
Sau
hai tuần lễ thảo luận, phủ toàn quyền Pháp ở Hà Nội bằng lòng trả cho đề Thám
15,000 đồng bạc Đông Dương, tiền chuộc hai người Pháp. Đồng thời, để cho Đề Thám quy thuận, phủ toàn
quyền Đông Dương đồng ý giao cho Đề Thám cai quản bốn tổng ở Yên Thế Thượng là
Yên Lễ, Hữu Thượng, Mục Sơn, Nhã Nam, và được hưởng thuế trong ba năm, bắt đầu
từ ngày 23-10-1894.
Sau
khi giảng hòa, Đề Thám đóng bản doanh ở Phồn Xương, tổ chức làm ruộng, khai khẩn
đồn điền, khuếch trương thế lực, tích trữ lương thực, mua thêm vũ khí. Trong khi đó, chung quanh Yên Thế xảy ra nhiều
cuộc tấn công, cướp bóc, mà Pháp đổ lỗi cho thuộc hạ của Đề Thám. Pháp còn cho rằng các “tướng cướp” đã trốn
lên Yên Thế, một cứ địa an toàn, để tránh bị truy nã.
Dựa
vào lý do đó, phủ toàn quyền Pháp giao cho đại tá Galliéni, trưởng quân khu 2,
đóng ở Lạng Sơn, giải quyết việc Yên Thế.
Galliéni gởi thư cáo buộc Đề Thám đã bao che cho thuộc hạ đi đánh cướp,
gây mất an ninh, và buộc Đề Thám phải giải giới tất cả mọi người. Đề Thám trả lời rằng ông hoàn toàn không hay
biết việc cướp bóc và hứa sẽ đem nạp 30 thủ hạ và 30 khẩu súng. Galliéni không chấp thuận, ra lệnh tấn công
Phồn Xương ngày 29-11-1895, nhưng Đề Thám đã lẫn trốn. Ông dẫn gia đình và thuộc hạ di chuyển hết
căn cứ nầy đến căn cứ khác, không ở yên một chỗ, để tránh bị tấn công. Lực lượng của ông khi ẩn khi hiện khắp vùng rừng
núi Thái Nguyên, Bắc Giang và Bắc Ninh.
Tháng
1-1897, Paul Doumer đến làm toàn quyền Đông Dương. Lúc đó, Doumer dự tính xin quốc hội Paris thuận
cho vay 200 triệu quan để thực hiện dự án cai trị Đông Dương. Muốn thế, ông phải chứng tỏ cho quốc hội
Paris thấy rằng Đông Dương hoàn toàn ổn định, không còn mất an ninh. Do đó, ông gấp rút giải quyết vụ Yên Thế, nhờ
giám mục Velasco đứng làm trung gian một lần nữa, cho Đề Thám biết ý định hòa
bình của tân toàn quyền. Ngày
13-11-1897, Đề Thám viết thư cho Doumer đồng ý quy thuận với những điều kiện
cũ, nghĩa là Đề Thám sẽ cai trị bốn tổng như trước đây. Phủ toàn quyền chấp thuận và Đề Thám trở lại
Phồn Xương tháng 12-1897. (Paul Chack, sđd. tt. 128-130.) Lần nầy, Đề Thám tạm sống yên ổn ở Yên Thế. Được bốn năm, tin tưởng rằng Đề Thám hoàn
toàn chịu quy thuận, Pháp long trọng tổ chức lễ tuyên thệ của Đề Thám tại Nhã
Nam ngày 17-4-1901.
3.-
ĐỀ THÁM VỚI PHONG TRÀO DUY TÂN VÀ ĐÔNG DU
Tình
hình chính trị Việt Nam yên tĩnh một thời gian vào đầu thế kỷ 20 và bắt đầu sôi
động trở lại với sự thành lập phong trào Duy tân và phong trào Đông du ở miền
Trung Việt Nam. Hoạt động của hai phong
trào nầy vang dội đến rừng núi Yên Thế, nhất là khi lãnh tụ của cả hai phong
trào nầy đến thăm điền trang của Đề Thám.
Thứ
nhứt, khoảng đầu năm 1906, Phan Châu Trinh ra Hà Nội. Ông giúp các ông Lương Văn Can, Nguyễn Quyền,
thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục. Trước
khi lên đường qua Trung Hoa, Phan Châu Trinh đến Yên Thế thăm Đề Thám, nhờ sự
hướng dẫn của Ông Ích Đường. Ông Ích Đường
là con của Ông Ích Kiền và là cháu nội Ông Ích Khiêm. Ông Ích Khiêm, với một bà vợ người Hà Đông,
có một người con trai là Ông Ích Thọ.
Như thế Thọ là em của Kiền và là chú của Đường. Nhân ra bắc thăm quê ngoại, Ông Ích Thọ lên
Yên Thế, gia nhập lực lượng Đề Thám. Ông
Ích Đường đem theo gia phả nhà mình cùng Phan Châu Trinh lên Yên Thế, gặp Ông
Ích Thọ. Hai bên nhận ra chú cháu. Thọ đưa Phan Châu Trinh đến gặp Đề Thám. (Theo
lời kể của Ông Ích Bật, con trai của Ông Ích Đường, cho người viết trong các cuộc
phỏng vấn năm 1972, 1973 tại Đà Nẵng.)
Không ai rõ Đề Thám và Phan Châu Trinh đã trao đổi những gì, nhưng đường
lối của hai ông hoàn toàn khác biệt nhau, một bên bạo động, một bên bất bạo động,
nên về sau không nghe nói đến nữa.
Thứ
hai, vào đầu 1907, Phan Bội Châu từ Nhật Bản, qua Trung Hoa, theo đường bộ về
Việt Nam, đã ghé Yên Thế thăm Đề Thám trong 10 ngày. (Phan Bội
Châu niên biểu, đăng trong Chương Thâu, Phan
Bội Châu toàn tập, tập 6, Huế: Nxb. Thuận Hóa, 1990, tr. 131.) Thật ra, đây là lần thứ hai Phan Bội Châu lên
Yên Thế. Ông lên Yên Thế lần đầu vào cuối
năm 1902, nhưng không gặp được Đề Thám vì ông Đề bị đau. (Chương Thâu, sđd. tt. 62-63.)
Trong
lần thứ hai nầy, khi gặp nhau, Phan Bội Châu đề nghị Đề Thám ba điều: 1) Mời Đề
Thám gia nhập hội Duy tân và thừa nhận Cường Để làm hội chủ. 2) Xin Đề Thám
dung nạp những nghĩa sĩ Trung Kỳ bị khủng bố. 3) Nhờ Đề Thám ứng viện khi Trung
Kỳ xướng nghĩa. Đề Thám cũng đề nghị
Phan Bội Châu ba điều: 1) Trung Kỳ viện trợ cho Phồn Xương, nếu có việc đánh
Pháp. 2) Hội Duy tân lo việc ngoại giao nếu Phồn Xương đánh Pháp. 3) Hội Duy tân trợ giúp nếu Phồn Xương thiếu thốn. Đề Thám liền chọn một hòn núi nhỏ phía sau đồn
Phồn Xương để Phan Bội Châu lập căn cứ cho người Trung Kỳ. Chính tại núi nầy, Phạm Văn Ngôn, hiệu là
Tùng Nham, dựng một đồn riêng, gọi là đồn Tú Nghệ, cho những nhà hoạt động
Trung Kỳ tá túc. (Chương Thâu, sđd. tt. 132-133.)
Sau
khi Phan Bội Châu rời Yên Thế, Đề Thám bí mật lập đảng Nghĩa Hưng, nhận Kỳ Ngoại
Hầu Cường Để làm minh chủ, đúng theo đề nghị của Phan Bội Châu. (Paul Chack, sđd. tt. 154-158.) Đề Thám
còn bí mật cử thuộc hạ là lý Nho tổ chức đánh úp Pháp tại Hà Nội ngày 17-11-1907,
nhưng bất thành. (Paul Chack, sđd. 168-169.) Ngày 27-6-1908, tại Hà Nội, một nhóm lính khố
đỏ tổ chức đầu độc lính Pháp, với sự yểm trợ ở bên ngoài của lực lượng Hoàng
Hoa Thám. Công việc bị bại lộ nên mưu
tính nầy bị Pháp chận đứng.
Cần
lưu ý rằng trước vụ đầu độc lính Pháp tại Hà Nội (tháng 6-1908), là vụ xin xâu
chống thuế ở Trung Kỳ (tháng 3-1908).
Pháp đàn áp dữ dội và dẹp yên ngay tức khắc. Sau vụ nầy, tổng thống Pháp ký sắc lệnh ngày
26-6-1908 cử Wladilas Klobukowsky làm toàn quyền Đông Dương. Klobukowsky đưa ra những biện pháp cứng rắn để
giải quyết cả hai vụ nổi dậy ở Trung Kỳ và ở Hà Nội. Nhằm tiếp tục ổn định tình hình, chính quyền
Pháp liền nghĩ đến việc tấn công Yên Thế, mà người Pháp tin rằng đó là nơi
nương náu của những phần tử chống đối, và là đầu mối của những xáo trộn ở Bắc Kỳ.
4.- PHÁP TẤN CÔNG YÊN THẾ
Ngày
28-1-1909, Pháp gởi tối hậu thư buộc Đề Thám phải trình diện ở Hà Nội, trao võ
khí, thuộc hạ, người đào ngũ và phiến quân trốn ở Yên Thế cho Pháp. Đồng thời Pháp treo yết thị tại các đình làng
trên toàn tỉnh Bắc Giang tố cáo Đề Thám không chịu yên ổn làm ăn, mà tiếp tục
cướp bóc, và kêu gọi dân chúng giúp đỡ chính phủ dẹp Đề Thám.
Ngày
hôm sau, 29-1-1909, quân khố xanh (Việt) tấn công căn cứ của Đề Thám ở Chợ Gò,
phía bắc Nhã Nam, nhưng bị đẩy lui. Khi
quân Pháp đến Chợ Gò ngày hôm sau, thì nghĩa quân đã rút đến vùng cách Hà Nội
khoảng 20 cây số về phía bắc. Tại đây,
ngày 5-7-1909, thuộc hạ của Đề Thám bắt được một người Pháp tên là Voisin, giám
thị hãng thầu Leroy, trên con đường đá mới mở từ Đông Anh đi Cao Bằng. Đề Thám liền dùng Voisin làm con tin để
thương lượng với Hà Nội.
Tin
Voisin bị bắt làm xôn xao dư luận Hà Nội, nhưng Pháp không chịu chuộc, mà buộc
Đề Thám phải thả Voisin, và nhất quyết đem quân lùng bắt Đề Thám. Đề Thám tiếp tục di chuyển liên tục, lên Thái
Nguyên, về Yên Thế... Voisin bị đuối sức;
Đề Thám đành thả y. Thuộc hạ của Đề Thám
hoặc bị tử thương, hoặc dần dần đầu hàng Pháp, chỉ còn một ít người theo Đề
Thám.
Ngày
30-7-1909, Pháp cử Lê Hoan, nay đổi qua chức tổng đốc Hải Dương, làm Khâm sai,
cầm quân cùng Pháp đánh Đề Thám. Lê Hoan
theo phương pháp của Nguyễn Thân, ngăn chận những nguồn tiếp liệu của Đề Thám,
trừng phạt thật nặng những làng nào tình nghi chứa chấp hay yểm trợ cho Đề Thám,
nên dần dần dân chúng giảm việc giúp đỡ
Đề Thám. Đề Thám rút lên gần Tam
Đảo giữa Vĩnh Yên và Thái Nguyên. Một trận
đụng độ lớn cuối cùng xảy ra ngày 5-10-1909 tại núi Lang, gần Tam Đảo. Pháp chết 17 (trong đó có 7 quân Pháp), bị
thương 31 người (trong đó có 21 Pháp). Đề
Thám chỉ còn khoảng 20 quân. Cả Rinh và
Đội Sơn, hai thủ hạ thân cận của đề Thám đầu hàng Lê Hoan. Ngày 30-11, bà Ba Nhu, tức bà vợ thứ ba của Đề
Thám, cùng con là Hoàng Thị Thế, bị bắt.
Bà là một nữ thủ lãnh nổi tiếng ở Yên Thế, giúp chồng rất đắc lực.
4.- CÁI CHẾT CỦA HÙM THIÊNG YÊN THẾ
Có
hai nguồn tin khác nhau về cái chết của Đề Thám.
Theo
nguồn tin của Pháp, quân Pháp đeo bám Đề Thám hết sức gắt gao, nhưng vẫn không
bắt được Hùm Thiêng Yên Thế. Ông ẩn hiện
khắp nơi, Pháp không biết cách nào bắt cho được Đề Thám, liền nhờ đến Lương Tam
Kỳ, một dư dảng của Thái Bình Thiên Quốc ở Trung Hoa, tràn sang nước ta làm thổ
phỉ. Sau hòa ước Thiên Tân lần thứ hai ngày 9-6-1885 giữa Pháp và Trung Hoa về vấn đề
Việt Nam, quân Trung Hoa rút về nước, Lương Tam Kỳ ở lại hoạt động vùng Chợ Chu
(bắc Thái Nguyên), xuống tới Tam Đảo (giữa Thái Nguyên và Phúc Yên). Năm 1889, Pháp đem quân tấn công. Lương Tam Kỳ xin hàng với điều kiện được chia
đất cai trị và được trả lương. Phủ toàn quyền
Pháp đồng ý, giao cho Lương Tam Kỳ cai quản 4 tổng gần Chợ Chu và 42,000 đồng
Đông Dương một năm. Lương Tam Kỳ ở yên
trong 4 tổng đó và quân Pháp cũng không được vào 4 tổng đó.
Được
Pháp thuyết phục, Lương Tam Kỳ gởi ba “khách trú” (chỉ người Trung Hoa), giả
làm người của tướng Liên bên Quảng Tây (Trung Hoa), đến liên lạc với Đề Thám ở
Yên Thế thượng vào ngày 10-1-1913. Tuy
đang cần sự giúp đỡ từ bên ngoài, nhưng Đề Thám cũng rất cẩn thận đề phòng, nên
mãi đến một tháng sau, tối 9-2-1913 (rạng 10-2-1913), ba người nầy mới ra tay,
hạ thủ được Đề Thám trong lúc ông đang ngủ.
(Paul Chack, sđd. tt
261-263.) (10-2-1913 tức mồng 5 Tết năm
quý sửu). Quân Pháp cho bêu đầu Đề Thám ở
Nhã Nam trong 2 ngày rồi dùng dầu hỏa thiêu đốt, tro cốt đổ xuống ao. Nguồn tin nầy về cái chết của Đề Thám được
xem là nguồn tin chính thức, và sử sách thường viết theo nguồn tin nầy.
Tuy
nhiên, theo nguồn tin gia đình của Đề Thám thì sự thật không phải như vậy. Trong sách Năm mươi năm cách mạng hải ngoại- Hồi ký của Hoàng Nam Hùng, do Phạm
Giật Đức biên soạn, Sài Gòn 1960, trang 43, phần chú thích, Hoàng Nam Hùng kể lại:
“Việc ông Hoàng Hoa Thám bị giết chỉ là một
giả thuyết của người Pháp dựng lên, vì sau đó cái đầu lâu ấy có người đến nhận
là đầu của người khách [Tàu) buôn bán
ở Bố Hạ. Người nầy vì giống ông Thám,
nên quân của Lương Tam Kỳ giết đi để thay thế, mục đích để tạm yên cho ông Thế
khỏi bị truy tầm. Năm 1947, tôi [Hoàng
Nam Hùng] có qua nhà bà vợ hai của Ông [Đề
Thám] ở làng Trũng, thì được biết Ông chốn
[trốn] về ở đây, và sau mất đi vì bị
bệnh kiết. Tuy việc nầy sau đó người
Pháp có biết, nhưng mục đích để yên lòng dư luận, họ cũng lờ đi.”
Lời
của Hoàng Nam Hùng thuật lại một việc không liên hệ đến vấn đề chính trị mà
Hoàng Nam Hùng đang theo đuổi, có thể xem là trung lập hay vô tư đối với cái chết
của Hoàng Hoa Thám. Hoàng Nam Hùng gặp được
bà vợ thứ hai của Đề Thám và bà nầy kể lại cái chết của chồng mình thì hẳn là
chính xác. Do đó, cần phải chú ý đến nguồn
tin nầy để nghiên cứu thêm, nhất là tìm đến quê quán của bà vợ thứ hai của
Hoàng Hoa Thám ở làng Trũng tại Yên Thế để dò hỏi và kiểm chứng lại nguồn tin nầy,
nhân đó có thể lần mò tìm ra ngôi mộ của Hoàng Hoa Thám ở vùng nầy.
Nếu
nguồn tin Hoàng Nam Hùng thuật lại đúng với thực tế, thì đây là một đính chính
quan trọng về cái chết của Hùm Thiêng Yên Thế Hoàng Hoa Thám, tên thật là
TrươngVăn Nghĩa, dầu sa cơ thất thế, vẫn không để nhân thân lọt vào tay quân
Pháp xâm lược.
TRẦN
GIA PHỤNG
(Toronto,
22-8-2016)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét